Thách Thức Môi Trường Và Khí Hậu Trong Sản Xuất Cà Phê

by Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường
Kiến thức cà phêSpecialty CoffeeĐặc SảnBig DreamsExcellenceTramhaminDo the right thingsSâu bệnhmononoirThird Wave Coffee
FacebookTwitterZalo

Canh tác cà phê tại Việt Nam hiện đang gây tác hại môi trường nghiêm trọng, gồm suy thoái đất, khan hiếm nước, phá rừng và mất đa dạng sinh học. Tại nhiều vùng trồng cà phê, việc lạm dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu đã làm mất độ phì nhiêu của đất, gia tăng xói mòn đất, cũng như ô nhiễm đất và nước (Hồng, T 2024). Ngoài ra, phương pháp sản xuất thâm canh và biến đổi khí hậu đã dẫn đến tình trạng thiếu nước trầm trọng ở các vùng trồng cà phê chính như Tây Nguyên và một số tỉnh Tây Bắc, gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến năng suất cà phê và làm tăng chi phí sản xuất. Hơn nữa, việc mở rộng diện tích trồng cà phê tại Việt Nam đang góp phần phá hủy môi trường sống và mất đa dạng sinh học.

Ở Việt Nam, quá trình chế biến nhân cà phê tạo ra một lượng lớn phụ phẩm, chủ yếu là vỏ cà phê (husk), chiếm 45% trọng lượng quả khô (quy trình sấy khô), tương đương 0,9 tấn vỏ trên 1 tấn hạt khô. Ngược lại, quy trình chế biến ướt (chủ yếu dùng cho arabica) có thể tạo ra tới 2,5 - 3,5 tấn cùi (pulp) tươi và chất nhầy, cùng với 40 - 45 m3 nước thải trên 1 tấn hạt cà phê khô. Quá trình canh tác cà phê tại các trang trại cũng tạo ra một lượng chất thải đáng kể, gồm cả lá, cành và nhánh cây cắt tỉa.

Nhận thức về bảo vệ môi trường của các nhà sản xuất và cơ sở chế biến cà phê còn hạn chế, vì vậy họ thường xả chất thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước và các tài nguyên tự nhiên khác. Tuy nhiên, lượng chất thải có thể được coi là sinh khối chưa được sử dụng hết. Ước tính một tấn quả cà phê tươi sẽ lần lượt tạo ra khoảng 200 và 220 kg hạt cà phê xanh arabica và robusta (Wintgens, 2004). Quá trình chế biến cà phê tạo ra hơn 40 triệu tấn sinh khối mỗi năm (C4CEC, 2023), đây là một nguồn tài nguyên khá lớn để áp dụng các giải pháp KTTH. Các phụ phẩm này giàu vật liệu hợp chất hữu cơ lignocellulose và các hợp chất hoạt tính sinh học, mang lại cơ hội đáng kể cho các sáng kiến KTTH, gồm ủ phân compost và tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng như nhiên liệu sinh học, than sinh học và trà cà phê (trà cascara) (Hoseini và cộng sự, 2021; Heeger và cộng sự, 2017).

Mặc dù có tiềm năng, nhưng phần lớn lượng sinh khối này vẫn chưa được sử dụng hết, điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải cải thiện quản lý chất thải và các chiến lược định giá trong ngành cà phê của Việt Nam.

Suy thoái đất

Quá trình thâm canh cà phê trong nhiều năm, đặc biệt là ở Tây Nguyên, đã dẫn đến suy thoái đất. Người dân thường phụ thuộc nhiều vào phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, làm suy giảm chất lượng đất theo thời gian và làm giảm sức khỏe của đất thông qua quá trình axit hóa và gia tăng tỷ lệ sâu bệnh (Nguyễn, 2017; Wiryadiputra & Trần, 2008). Xói mòn đất cũng là một mối quan ngại, đặc biệt đối với các diện tích đất đồi trồng cà phê, vì việc loại bỏ thảm thực vật để canh tác và các thực hành quản lý đất kém đã làm mất lớp đất mặt. Hơn nữa, việc canh tác độc canh cây cà phê (chỉ một loại cây trồng trên một cánh đồng) cũng có thể làm cạn kiệt chất dinh dưỡng trong đất, làm đất giảm độ phì nhiêu. Nhìn chung, đất giảm độ phì nhiêu và mất lớp đất mặt có thể dẫn đến giảm năng suất nông nghiệp, tăng ô nhiễm nước từ dòng chảy trầm tích, tăng nguy cơ sạt lở đất và lũ lụt, và theo thời gian dẫn tới sa mạc hóa, khiến suy thoái đất trở thành một quan ngại môi trường đáng kể đối với sản xuất cà phê (Somorin, 2023).

Sử dụng nước quá mức và ô nhiễm nước

Tăng diện tích trồng cà phê gây hại đến việc bảo tồn nước do cả quá trình sản xuất và chế biến cà phê sử dụng một lượng lớn nước. Cây cà phê cần từ 300 - 400 lít nước cho mỗi cây/vòng tưới (khoảng 600 - 1.200 m3/ha). Nhiều nông dân trồng cà phê khoan giếng để lấy nước tưới cà phê, tạo ra các dòng chảy ổn định vào các giếng, và làm cạn kiệt nước ngầm do khai thác quá mức (D’haeze, 2020, 2019; Riddell, 2019). Công đoạn chế biến cà phê cũng cần rất nhiều nước, đặc biệt là chế biến ướt, khá tốn kém và thường chỉ được sử dụng với hạt cà phê arabica chất lượng cao. Vào mùa thu hoạch, việc chế biến cà phê gây ô nhiễm nguồn nước, cả nước mặt và nước ngầm (Đức và cộng sự, 2021).

Mất đa dạng sinh học

Nhu cầu cà phê tăng lên sẽ tạo ra áp lực mở rộng diện tích đồn điền cà phê, dẫn đến nạn phá rừng, đặc biệt là ở Tây Nguyên – thủ phủ của hầu hết các trang trại cà phê. Trước năm 2010, một trong những lý do chính dẫn đến suy giảm rừng ở Việt Nam là việc khai hoang đất để trồng cây công nghiệp như cà phê (Nguyễn Thị Hồng Minh và cộng sự, 2021). Điều này không chỉ làm giảm đa dạng sinh học, mà còn góp phần gây ra biến đổi khí hậu khi giải phóng carbon được lưu giữ trong cây. Hơn nữa, khi chuyển sang trồng cà phê, các hệ sinh thái đa dạng thường sẽ bị thay thế bằng các loại cây trồng đơn loài (tức là độc canh), làm giảm đa dạng sinh học của khu vực, khiến cây trồng dễ bị sâu bệnh hơn, điều này có thể đe dọa sức khỏe của cây cà phê.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Sở NN&PTNT) (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) tỉnh Lâm Đồng, trong những năm gần đây, tình trạng phá rừng để làm đồn điền cà phê ở Tây Nguyên hiếm khi xảy ra, nhưng diện tích đã bị thay thế thành cây cà phê trước đây vẫn chưa được phục hồi lại thành rừng.

Phát thải carbon

Việc trồng và sản xuất cà phê cũng có thể gây hại cho môi trường do thải ra một lượng lớn KNK, như mê-tan, carbon dioxide và chlorofluorocarbon. Quá trình này xảy ra trong tất cả các công đoạn sản xuất và chế biến cà phê. Theo khảo sát năm 2019 của Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH), tổng lượng phát thải từ hoạt động sản xuất cà phê robusta ở cấp độ trang trại tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk là xấp xỉ 1,39 tCO2tđ trên một tấn hạt cà phê khô (sau khi trừ đi lượng lưu giữ carbon). Trong các nghiên cứu gần đây hơn, lượng phát thải carbon (chưa trừ lượng lưu giữ carbon) ước tính là 1,83 tCO₂tđ trên một tấn hạt xanh tương đương (GBE) ở tỉnh Lâm Đồng, và 3,85, 2,65 và 2,58 tCO₂tđ trên một tấn Hạt xanh tương đương (GBE) lần lượt từ các hệ thống độc canh, xen canh với mức độ đa dạng trung bình và xen canh với mức đa dạng cao ở tỉnh Đắk Lắk (Enveritas, 2023; Kuit và cộng sự, 2020).

Trong sản xuất cà phê ở Việt Nam, phân bón là tác nhân lớn nhất gây phát thải carbon, tiếp theo là sử dụng năng lượng. Trung bình, 73 - 83% tổng lượng phát thải là do sử dụng phân bón, 8 - 27% do sử dụng năng lượng và 13% do quản lý phụ phẩm (Enveritas, 2023; Kuit và cộng sự, 2020; IDH, 2025). Mức độ sử dụng phân bón khá ổn định từ năm này sang năm khác, nhưng mức tiêu thụ năng lượng thay đổi theo lượng mưa trong giai đoạn cà phê ra hoa. Khi lượng mưa thấp hơn bình thường, mức sử dụng năng lượng tăng lên do nông dân tăng lượng nước tưới tiêu.

Các nguồn phát thải khác, như thuốc trừ sâu, không đáng kể và tạo ra khoảng 2 kg CO₂tđ trên mỗi tấn cà phê. Dấu chân carbon từ sản xuất cà phê thay đổi đáng kể khi áp dụng các thực hành thông thường và thực hành bền vững.

https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/2025-11/0611_vnm_coffee_production.pdf

Related Posts

Best Seller Drinks